Diễn Đàn Tình Bạn
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Kết bạn , giao lưu


You are not connected. Please login or register

Tiểu Thuyết Người Nhạc Sĩ Mù Chương 1

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

@ nhox_kid00z

@ nhox_kid00z
Thành viên Bạc
Thành viên Bạc

Lời tác giả:

Tôi biết trước lần này việc nhuận chính và những đoạn thêm bớt sẽ làm người đọc ngạc nhiên, nên thấy cần phải giải thích. Đề tài chủ yếu cũng như động cơ căn bản về tâm lý của câu chuyện là lòng khao khát được thấy ánh sáng của con người, một thứ khao khát do bản năng, do cơ thể thôi thúc. Đấy là mấu chốt cuộc khủng hoảng tinh thần trong phát triển của nhân vật chính câu chuyện và cách giải quyết nó. Trong số những lời phê bình của bạn thân tôi, hoặc trên báo chí, có những lời phản đối, cho là cái bản năng ham muốn ánh sáng ấy không thể có ở một người mù từ thuở lọt lòng. Những người này không hề thấy ánh sáng, vậy họ không thể thấy thiếu thốn cái mà họ không bao giờ biết đến. Theo tôi, lời chê trách đó có phần không đúng. Chúng ta chưa hề bao giờ bay được như chim, thế mà ai cũng thấy rõ rệt cái cảm giác bay liệng trên không đã từ bao nhiêu năm vẫn hằng ám ảnh các trẻ em và các thanh niên trong những giấc mơ. Tuy nhiên, cũng xin thú thực là cái chủ đề ấy được đưa vào câu chuyện trước hết là do trí tưởng tượng của tôi gợi ra. Mãi mấy năm về sau, khi cuốn sách này đã được tái bản nhiều lần, trong một buổi dạo chơi, tôi đã may mắn được có dịp quan sát trực tiếp. Hai chú bé kéo chuông mà độc giả sẽ thấy nói đến ở chương VI (một chú bị mù từ thuở lọt lòng), tâm trạng khác nhau của hai chú, đoạn tả hai chú với lũ trẻ con, những lời của chú Iêgo nói về những giấc mơ, tất cả những cái đó, tôi đã mục kích tại chỗ và có ghi vào sổ tay ngay trên tháp chuông nhà thờ Sarôpski thuộc giáo quản khu Tam bốp. Ngày nay có lẽ hai chú bé vẫn còn sống và đang giới thiệu tháp chuông với khách đến thăm. Từ ngày đó mỗi lần sách tái bản, tôi lại băn khoăn về đoạn này mà theo tôi, là đoạn quyết định để giải quyết dứt khoát vấn đề. Chỉ hiềm vì câu chuyện đã viết xong, viết lại thực rất khó, nên tôi cứ chần chừ mãi không đưa đoạn này vào.

Lần tái bản này, đoạn thay đổi kể trên là phần thay đổi quan trọng nhất. Những chi tiết sửa đổi khác chỉ là hậu quả của nó, vì một khi đề tài đã sửa lại, tất nhiên tôi không thể chỉ làm việc nhét thêm một đoạn mới vào một cách máy móc, óc tưởng tượng của tôi trở lại vết cũ, công việc của nó tất nhiên thấy phản ánh trên những đoạn khác trong câu chuyện.


I

Đêm khuya. Trong một gia đình giàu có vùng Tây nam, một đứa bé ra chào đời. Bà mẹ, một thiếu phụ còn trẻ, nằm thiêm thiếp trên giường, nhưng khi tiếng oa oa đầu tiên của đứa trẻ khe khẽ và não nuột vang lên trong buồng, thì bà mẹ, mắt vẫn nhắm nghiền, cũng bắt đầu quằn quại. Đôi môi thiếu phụ mấp máy một điều gì, khuôn mặt tái nhợt hiền hậu, gần như còn ngây thơ, chợt nhăn nhó đau đớn, nóng ruột, giống như đứa trẻ vốn được nuông chiều lần đầu tiên gặp việc lo buồn.

Bà đỡ ghé tai sát môi thiếu phụ đang lắp bắp. Thiếu phụ thều thào hỏi:

- Cháu nó làm sao thế?... Sao thế?

Bà đỡ không hiểu câu hỏi. Đứa trẻ lại khóc thét lên. Khuôn mặt sản phụ ánh lên một nỗi đau đớn xót xa. Từ đôi mắt đang nhắm, một giọt nước mắt lớn trào ra. Đôi môi thiếu phụ vẫn thầm thì rất khẽ như ban nãy:

- Sao thế? Sao thế?

Lần này bà đỡ đã hiểu ra, bình tĩnh đáp:

- Bà hỏi tại sao cháu nó khóc chứ gì? Bà cứ yêntâm, đứa bé nào lọt lòng ra cũng vậy.

Nhưng người mẹ không sao yên tâm được. Cứ mỗi lần đứa bé khóc, bà lại rùng mình, luôn miệng hỏi, giọng cau có, nóng ruột:

- Sao mà cháu nó khóc... ngằn ngặt làm vậy? Bà đỡ nghe không thấy có gì lạ trong tiếng khóc của đứa bé. Bà cho là thiếu phụ nói mê hoặc đang mê sảng, bà mặc kệ chỉ lúi húi chăm sóc cho đứa nhỏ.

Thiếu phụ nín bặt. Chốc chốc nỗi đau xót không thoát ra ngoài được bằng cử chỉ hoặc lời nói, lại làm nước mắt thiếu phụ ứa ra. Những giọt nước mắt to lớn lọt qua đôi hàng mi đen láy, dầy dặn, khẽ lăn trên đôi má tai tái màu đá cẩm thạch.

Có lẽ trái tim người mẹ đã cảm thấy có một số mệnh đau khổ, tối tăm, không lối thoát, vừa đây cùng ra đời với đứa con của bà, cái số mệnh ác nghiệt ấy treo lơ lửng trên nôi đứa bé để theo đuổi nó cho đến lúc nó chết.

Có lẽ đấy chỉ tại mê sảng chăng? Dù sao, đứa bé cũng bị mù ngay từ thuở mới lọt lòng.





II

Ban đầu không ai nhận thấy. Đôi mắt đứa bé nhìn lờ đờ, mơ hồ, cái nhìn đặc biệt của mỗi trẻ em sơ sinh cho đến một tuổi nào đó. Ngày tháng trôi qua, đứa bé ra đời đã được mấy tuần. Đôi mắt nó sáng ra, màng trắng đục trước kia che lấp đôi mắt nay biến đi, đã nom thấy rõ con ngươi. Nhưng khi một tia sáng chói ùa vào buồng cùng với tiếng chim hót ríu rít, vui vẻ, lẫn tiếng rì rào của đám cây dẻ gai xanh mướt đung đưa ngay cạnh cửa sổ trong khu vườn rộng, đứa bé không hề quay đầu lại. Bà mẹ đã có thời giờ bình phục, bà là người đầu tiên lo lắng nhận thấy cái vẻ lạ lùng trên khuôn mặt nhỏ nhắn không bao giờ động đậy của đứa bé, cái vẻ nghiêm nghị không đúng vẻ mặt của một đứa mới lọt lòng. Như con bồ câu mái kinh hoàng, thiếu phụ ngơ ngác nhìn mọi người và hỏi:

- Bác ơi, sao cháu nó lại thế nhỉ? - Mọi người thản nhiên hỏi lại:

- Thế nào? Cháu nó có khác gì những đứa cùng tuổi với nó đâu...

- Nhưng kìa, bác hãy nhìn vẻ mặt kỳ quái của cháu. Như nó đang lấy tay quờ quạng tìm một vật gì...

Bác sĩ đáp:

- Tại cháu nó còn chưa biết phối hợp động tác của đôi bàn tay với những ấn tượng mắt nó nhìn thấy đấy thôi.

- Nhưng thế tại sao bao giờ nó cũng cứ nhìn mãi về một phía. Nó... nó... mù phải không? - Thiếu phụ kêu thét lên, trái tim thốt nhiên bị một ý nghĩ ngờ vực kinh khủng xuyên qua, không còn ai an ủi được.

Bác sĩ bế lấy đứa bé, quay phắt nó về phía ánh sáng và nhìn vào đôi mắt nó. Ông hơi băn khoăn. Sau mấy câu qua quít, ông ra về, hứa vài ba ngày nữa sẽ trở lại.

Bà mẹ khóc lóc, giẫy giụa như chim bị đạn. Bà ép chặt đứa con nhỏ vào lòng. Đôi mắt đứa bé vẫn cứ ủ rũ, không động đậy.

Vài ngày sau, đúng lời hứa, bác sĩ trở lại, mang theo một chiếc kính thử mắt. Ông thắp một ngọn nến, lúc đưa cây nến ra xa, lúc đem lại gần mặt đứa bé. Ông nhìn vào tận đáy tròng mắt. Sau cùng, ông hết sức bối rối, ngập ngừng nói:

- Thưa bà, đáng tiếc quá, bà đã không lầm... Quả là cháu nó mù và không còn hy vọng gì.

Nghe bác sĩ nói, bà mẹ buồn rầu lặng ngắt. Bà khe khẽ nói: - Thưa bác sĩ, tôi biết vậy từ đã lâu.





III

Gia đình em bé mù cũng không đông. Ngoài mấy người kể trên còn có ông bố và “Cậu Mácxim”. Mọi người trong nhà và cả đến người ngoài ai cũng gọi ông ta là “Cậu Mácxim”. Ông bố cũng như trăm nghìn những người chủ điền khác ở vùng Tây nam: tính nết nhu nhược, có phần hiền lành, coi sóc kẻ ăn người làm đâu vào đấy và rất thích xây đi xây lại mấy chiếc máy xay bột, những công việc ấy làm ông ta bận luôn tay gần hết ngày, chỉ đúng đến bữa ăn hoặc có việc gì tương tự mới thấy tiếng ông trong nhà. Những lúc đó, bao giờ cũng chỉ hỏi vợ có một câu: “Mợ nó, khỏe mạnh chứ!”. Hỏi xong là ngồi vào bàn, rồi từ đấy hầu như không nói năng gì hết. Chỉ thỉnh thoảng, họa hoằn lắm mới đem câu chuyện về những chiếc ống gỗ sên hay những chiếc trục xe ra nói. Con người thuần hòa, đơn giản ấy, tất nhiên gần như không có chút ảnh hưởng gì đến tâm trạng của đứa con trai.

Trái lại, “Cậu Mácxim” là một người khác hẳn. Mười năm trước khi xảy ra câu chuyện này, chú Mácxim nổi tiếng là tay hay gây gổ nguy hiểm, không những nhất vùng ấp trại nhà mà còn khét tiếng cả ở Kiép, vào những ngày phiên chợ “Kôngtơra”(1). Không ai hiểu được cái con người cứng đầu cứng cổ ấy lại có thể là em trai bà Pôpenska, tức Iatsenkô, gia đình danh giá. Không ai biết cư xử với cậu ta ra sao, làm thế nào cho cậu vừa lòng. Đáp lại những câu chào đón ân cần của những người quý tộc, cậu tỏ ra rất hỗn xược, còn mấy anh nông dân có điều gì thô lỗ kinh khủng với cậu; dù có gặp tay thượng lưu hòa nhã nhất đời họ cũng được mấy cái tát, thế mà cậu Mácxim lại bỏ qua. Về sau, thật là may mắn vô cùng cho tất cả những người tai to mặt lớn là chẳng rõ tại sao cậu Mácxim lại đi căm thù bọn Áo, cậu sang Ý kết bè với Garibanđi, một tay cũng hay gây gổ, vô thần, vô đạo như cậu. Cứ theo những người điền chủ đồn đại thì Garibanđi đang kết cánh với quỷ sứ, bất chấp cả đức Giáo hoàng - Tất nhiên hành động như vậy, cậu Mácxim vĩnh viễn mất cái đầu óc hiếu loạn vô đạo. Nhưng trái lại những phiên chợ “Kôngtơra” từ đó cũng hết hẳn những vụ ẩu đả, và trong những gia đình quý phái, nhiều bà mẹ cũng không còn phải lo cho số phận những đứa con trai của họ.

Cố nhiên người Áo cũng hết sức căm giận cậu Mácxim. Thỉnh thoảng tờ “Tin tức”, là tờ báo mà những người điền chủ vùng này thích đọc, có nêu tên cậu Mácxim trong số những nghĩa quân hăng hái nhất của Garibanđi. Một sáng kia, cũng trên tờ “Tin tức” có đăng tin cậu Mácxim, cả người lẫn ngựa, đã bị gục trong một trận đánh nhau. Bọn Áo vốn căm tức từ lâu cái con người điên cuồng dữ tợn ấy, cái con người đã giúp Garibanđi chống chọi lại được với họ (điều này ít ra cũng là ý kiến của đồng bào cậu Mácxim), nên họ đã lấy búa vằm nát cậu ra từng mảnh như thái xu hào.

Những người điền chủ láng giềng của cậu bảo nhau:

- Cậu Mácxim thế cũng là chết khổ!

Họ cho cậu chết là tại thánh Phêrô đã đặc biệt bênh vực cho người kế tục mình là Đức Giáo hoàng dưới hạ giới. Tất cả đều tin là cậu Mácxim đã chết.

Nhưng thực ra, lưỡi gươm của bọn Áo không chém đứt được cái linh hồn dẻo dai của cậu Mácxim. Linh hồn cậu cứ bám riết lấy cơ thể, mặc dầu cái cơ thể ấy đã bị hư hại quá nặng. Nghĩa quân của Garibanđi đã cứu được người bạn anh dũng của họ khỏi đám hỗn quân, và đưa đến một bệnh viện. Mấy năm sau, bất ngờ cậu Mácxim không biết ở đâu lừng lững trở về nhà bà chị, và ở hẳn đấy không đi đâu nữa.

Từ đấy cậu Mácxim không nghĩ gì đến gây lộn đánh nhau. Trái đùi bên phải bị cụt hẳn, nên đi đâu cậu cũng phải dùng một chiếc nạng. Ngoài ra, cánh tay trái cũng bị thương nặng, chỉ còn có thể cố gắng chống tạm được chiếc can. Nói chung là nay cậu Mácxim đã trở nên một con người nghiêm trang hơn, tính nết cậu đã thuần, chỉ còn cái lưỡi sắc thép của cậu thỉnh thoảng tỏ ra cũng bén như lưỡi gươm của cậu thời xưa. Cậu không đi chợ “Kôngtơra” nữa. Dần dần những buổi hội họp đông người, cậu cũng ít đến, cả ngày chỉ nhốt mình trong thư viện, giữa những đống sách, tuy không ai biết là sách gì, nhưng người ta đoán toàn là sách vô đạo cả. Cậu cũng có viết lách cái gì nữa đấy, nhưng vì tác phẩm của cậu không đăng trên tờ “Tin tức” nên cũng không ai chú ý đến lắm.

Khi đứa bé lọt lòng ra trong căn nhà quê mùa nhỏ bé và bắt đầu lớn lên, thì trên mái tóc húi ngắn của cậu Mácxim đã óng ánh điểm nhiều sợi bạc. Đôi vai cậu lúc nào cũng chống nạng nên dô cao hẳn lên, cả thân mình cậu như vuông lại. Cái hình thù kỳ quái và rầu rĩ, đôi hàng lông mày cứ nhíu lại của cậu Mácxim, tiếng lộc cộc đôi nạng nện xuống đất, và những đám khói thuốc luôn luôn trùm kín người vì cậu hút píp luôn mồm, tất cả những cái ấy làm cho người lạ ai cũng phải kinh hãi, chỉ có những người sống chung với cậu mới biết trong cái thân hình tàn tật ấy, một trái tim cao thượng, chứa đầy nhiệt huyết, đang đập mạnh và trong cái đầu to lớn vuông vắn, tóc dựng chởm lên rậm rạp, có một tinh thần đang làm việc không biết mệt.

Nhưng cả đến những người thân thích của cậu cũng không ai biết được cậu đang mê mải suy nghĩ vấn đề gì. Ai cũng chỉ thấy cậu Mácxim chìm lấp trong đám khói xanh, ngồi hàng mấy tiếng đồng hồ không động đậy, trầm mặc, ủ ê, đôi mắt lờ đờ, đôi lông mày nhíu lại. Người chiến sĩ tàn tật cho đời là một cuộc đấu tranh ác liệt không ngừng, trong đó không có chỗ đứng cho những kẻ tàn phế. Cậu thấy mình từ nay vĩnh viễn bị gạt bỏ ra ngoài hàng ngũ những người chiến đấu và cậu, một hiệp sĩ đã bị cuộc đời quật ngã, ném vào bụi bẩn, nay tiếp tục choán chỗ, làm bận cái thế giới này cũng chỉ là vô ích. Giẫy giụa như con giun bị xéo nát trên mặt đất, liệu có hèn mọn không? Cuộc sống nó cứ hớn hở đi lên, nay cố bám lấy cái bàn đạp của nó, để xin nó chút ân huệ cuối cùng, như vậy liệu có xứng đáng với cậu không?

Nhưng trong lúc cậu Mácxim đem hết can đảm, lạnh lùng và tập trung suy nghĩ về cái vấn đề nóng hổi, cân nhắc kỹ càng mọi lẽ phải trái, thì một sinh mệnh mới, tàn tật ngay từ thuở lọt lòng, bắt đầu làm cậu bận tâm. Ban đầu, cậu không để ý gì đến đứa bé mù, về sau, cậu lưu tâm thấy cái số phận của cậu và của đứa bé sao mà giống nhau đến thế.

Một hôm cậu liếc nhìn trộm đứa bé rồi trầm ngâm nghĩ:

- Hừm... hừm... đứa bé tội nghiệp này cũng là một kẻ tàn phế. Nếu gắn liền nó với ta có lẽ sẽ đúc nên một người khả dĩ cũng giúp ích được cho đời ít nhiều chăng.

Từ đấy trở đi, càng ngày cậu càng chú ý quan sát nhìn đứa cháu mù.





IV

Đứa bé lọt lòng ra đã bị mù. Lỗi ấy tại ai? Chả tại ai hết! Bên trong việc này không hề có một “ý chí xấu ác” nào. Cái nguyên nhân của tai họa này cũng giấu kín đâu tận trong chỗ uẩn áo của những quá trình bí mật và phức tạp của cuộc sống. Mỗi lần nhìn đứa bé mù, trái tim bà mẹ thắt lại, đau đớn, xót xa. Cố nhiên bà đau khổ, cái đau khổ của bà mẹ thấy con bị tàn tật và cảm thấy trước một cách thảm thương cái tương lai đau khổ đang rình đợi đứa bé. Nhưng thêm vào đấy, trong thâm tâm, thiếu phụ còn băn khoăn day dứt về ý nghĩ có lẽ nguyên nhân đứa bé bị tàn tật là ở nơi những người đã sinh ra nó.

Như thế cũng đủ để cả gia đình chỉ xoay quanh đứa bé có đôi mắt xinh đẹp mà lại bị mù, để cả nhà khuôn theo mọi ý muốn ỏe họe của đứa bé tai ngược, thứ tai ngược chưa có ý thức.

Một đứa bé mà tật bệnh đã mở lối cho cái tính hay hờn giận vô cớ, lại có đám người xung quanh quấn quít lấy, làm phát triển những tính tình ích kỷ của nó, chẳng hay đứa bé đó sẽ ra sao nếu không có cái số mệnh lạ lùng và lưỡi gươm bọn Áo buộc cậu Mácxim phải về nông thôn náu mình trong gia đình bà chị.

Việc có đứa bé mù trong nhà đã dần dần hướng tư tưởng luôn luôn hiếu động của người lính tàn tật đi theo một chiều khác hẳn một cách hết sức tế nhị. Vẫn như trước kia, cậu thường ngồi yên lặng hàng giờ, miệt mài hút thuốc, nhưng giờ đây, trong đôi mắt cậu đã ánh lên vẻ suy nghĩ của một người đang lưu tâm quan sát một vật gì chứ không còn có đau đớn âm thầm xót xa nữa. Cậu càng suy nghĩ, trán cậu càng nhăn, mồm càng rít mạnh thuốc. Một hôm cậu đánh liều can thiệp.

Nhả hết hơi thuốc này đến hơi khác, cậu Mácxim nói với chị:

- Thằng nhỏ này sẽ còn đau khổ hơn tôi nhiều. Thà nó đừng sinh ra lại hơn.

Bà Ana cúi đầu, một giọt nước mắt long lanh rơi xuống rổ khâu. Bà khe khẽ nói:

- Cậu Mác ơi, cậu nói thế đau lòng chị lắm, cậu nói làm gì?

- Nhưng là tôi nói thực với chị, hoàn toàn thực! Tôi mất một cánh tay và một chân, nhưng còn đôi mắt. Đằng này đôi mắt cháu nó bị hỏng, tức là nó sẽ không có chân tay, không có ý chí gì hết... - Tại sao?

Chú Mácxim dịu giọng nói:

- Chị Ana! Chị cố gắng hiểu ý của em. Không bao giờ em đi nói với chị những điều làm chị đau lòng để cho sướng miệng. Hệ thần kinh của cháu rất tế nhị. Giờ đây còn đủ thời giờ và mọi thuận tiện để làm phát triển mọi khả năng của cháu để bù đắp phần nào cho đôi mắt thiệt thòi của nó. Nhưng muốn như vậy, phải cho nó luyện tập. Còn tất cả những thứ nuông chiều ngu xuẩn chỉ làm đứa bé không bao giờ phải cố gắng, sẽ giết hết mọi khả năng tạo cho nó một cuộc sống đầy đủ hơn.

Vốn thông minh, bà Ana dằn lòng ngăn được mối xúc động đột nhiên nó thường khiến bà khi nghe tiếng đứa bé khóc rền rĩ là cuống cuồng chạy lại.

Mấy tháng sau đứa bé đã biết một mình bò tự do, nhanh nhẹn quanh khắp nhà. Thoáng có tiếng động, nó lại lắng tai nghe, gặp vật gì nó cũng hăm hở sờ nắn, cái hăm hở chưa từng thấy ở các trẻ em khác.





V

Đứa bé nhận ra được mẹ nó rất nhạy, chỉ cần bước chân đi, tà áo sột soạt và nhiều dấu hiệu khác của người mẹ, những dấu hiệu hết sức nhỏ nhặt, người ngoài không thể thấy được. Dù trong buồng có bao nhiêu người, mặc họ đi lại hay đứng yên, bao giờ em cũng đi được về phía mẹ, không hề lầm lẫn. Mẹ em có bất chợt bế em lên, em cũng nhận ra được ngay. Nếu là người lạ khác, em khẽ lấy đôi bàn tay nhỏ nhắn lanh lẹ sờ mặt người bế và nhận ngay ra người đó là u già, là bố hoặc là cậu Mácxim. Nếu được người lạ bế, em xem xét thong thả hơn, vẻ mặt dè dặt và chăm chú, em đưa đôi bàn tay xinh xắn lên sờ nắn khuôn mặt lạ, lúc ấy nhìn nét mặt em thấy rõ bên trong em đang suy nghĩ căng thẳng, như thể em “nhìn” với mấy đầu ngón tay.

Bản chất em lanh lẹn và hiếu động. Nhưng ngày tháng trôi qua, đôi mắt mù dần dần đã ảnh hưởng rõ rệt đến thể chất của em, cái thể chất đã bắt đầu có bản sắc rõ rệt. Cử chỉ của em ngày một kém phần hoạt bát. Em hay ngồi một mình ở những chỗ vắng vẻ, ngồi mấy giờ liền không động đậy, nét mặt thừ ra như nghe ngóng cái gì. Khi trong buồng không có ai và những tiếng động xung quanh không đến làm rộn, những lúc ấy hình như em chìm đắm trong suy nghĩ và trên khuôn mặt, lộ vẻ ngạc nhiên ngơ ngác, cái khuôn mặt xinh xắn nhưng quá ư nghiêm nghị đối với cái tuổi thơ ấu của em.

Cậu Mácxim đã đoán đúng. Hệ thần kinh cực kỳ phong phú và tế nhị của em đã thắng thế, hình như trong một chừng mực nào, nhờ thính quan và xúc giác rất nhạy cảm, nó cố gắng bù đắp lại để các tri giác được đầy đủ. Ai cũng phải ngạc nhiên nhất về đôi bàn tay rất tinh tế của em. Đôi khi, người nhìn có cảm tưởng em nhận rõ được cả màu sắc. Lúc đôi tay em nắm những màu vải sặc sỡ, ngón tay mảnh dẻ của em ngừng lại lâu lâu, nét mặt em chăm chú. Tuy nhiên, về sau dần dần càng thấy rõ rệt là ở em, giác quan phát triển tinh tế nhất là thính giác.

Chẳng bao lâu, nghe tiếng động riêng của mỗi thứ, em đã biết được một cách rõ ràng kỳ lạ mọi đồ đạc trong nhà. Em phân biệt được tiếng chân đi của cha mẹ em và của những người ở trong nhà. Em nhận ra được tiếng ghế cót két của cậu Mácxim tàn tật, tiếng sàn sạt khô khan và đều đặn của sợi chỉ mẹ em cầm trên tay, tiếng tíc tắc đều đều của chiếc đồng hồ. Thỉnh thoảng trong lúc bò men theo bức tường, em vểnh tai lắng nghe một tiếng động nhẹ nhàng các người khác không thể nghe thấy, em giơ bàn tay nhỏ bé lên không chỉ về phía con ruồi đang bò trên bức tường. Khi con vật kinh hãi bay đi, khuôn mặt em bao giờ cũng lộ ra vẻ khó chịu, ngơ ngác. Em không hiểu nổi được con ruồi bí mật biến đi ra sao. Nhưng về sau, gặp những trường hợp tương tự, mặt em nom có vẻ chăm chú, một thứ chăm chú có ý thức. Em ngoảnh mặt theo hướng con ruồi bay: đôi tai thính nhạy của em nhận thấy rõ cả tiếng cánh con vật nhỏ đập nhẹ nhàng trên không.

Vũ trụ sáng chói chuyển động và xào xạc ở chung quanh thâm nhập vào đầu óc em, phần lớn dưới hình thức những âm thanh. Chính cũng dưới hình thức âm thanh mà mỗi biểu tượng được khuôn nặn trong trí óc em. Mặt em cũng khuôn nặn theo sức chăm chú hết sức đặc biệt để nghe ngóng. Chiếc hàm dưới nhô ra một chút trên cái cổ mảnh dẻ và dài. Đôi lông mày trở nên linh hoạt lạ thường, đôi mắt mù xinh đẹp làm cho nét mặt em có một cái gì vừa khắc khổ vừa khiến người nhìn phải cảm động thương tâm.





VI

Em bé vừa tròn ba tuổi. Ngoài sân tuyết bắt đầu tan. Những con suối mùa xuân róc rách chảy. Gần suốt mùa đông, em bé hơi ươn mình không bước ra khỏi phòng, nay đã mạnh hơn.

Mấy chiếc khuông chắn gió ở cửa sổ đã được cất đi; mùa xuân ào vào buồng. Mặt trời trẻ măng tươi cười nhìn những tấm kính tràn ngập ánh sáng. Những cành dẻ đung đưa ngay bên ngoài cửa sổ, vẫn còn trơ trụi; xa xa cánh đồng một màu đen ngòm, loáng thoáng điểm mấy đám tuyết đang tan trắng xóa, hoặc mấy đám cỏ xanh non mới nhú. Mọi vật đều khoan khoái hẳn lên, sinh vật nào cũng thấy trong mình trào lên một luồng sinh lực mới. Nhưng với em bé mù, mùa xuân chỉ biểu hiện qua những tiếng động dồn dập. Em nghe thấy tiếng nước mùa xuân róc rách chảy, nước nhảy vọt trên đám sỏi rồi biến mất vào lòng đất ấm áp, mềm mại. Những cành dẻ thì thầm sau cửa sổ, quấn quít lấy nhau, đến gõ nhẹ nhàng lên những tấm kính cửa.

Những giọt nước đóng băng vì sương giá buổi sớm mai treo lủng lẳng trên mái nhà, gặp ánh nắng, tan rơi xuống lộp độp, tiếng nghe vừa mau vừa sang sảng như trận mưa muôn ngàn hạt đá sỏi lấp lánh rơi vào trong phòng. Thỉnh thoảng xen lẫn những tiếng động ấy, nghe văng vẳng từ xa có tiếng hạc kêu. Tiếng hạc từ trên trời cao tít tắt dần, chậm chạp như nhẹ nhàng tan ra trong không trung.

Cảnh vật tươi mới lại làm nét mặt em bé mù căng thẳng, đau đớn. Em cố gắng nhíu đôi hàng lông mày, nghển cổ, lắng tai nghe. Lo lắng vì không sao hiểu được cái tiếng ồn ào, em giơ đôi cánh tay nhỏ bé tìm mẹ, chạy bổ lại áp chặt mặt vào ngực mẹ.

Thiếu phụ ngơ ngác hỏi mình rồi hỏi người khác:

- Kìa cháu nó sao thế?

Cậu Mácxim chăm chú nhìn khuôn mặt đứa bé, cậu cũng chịu không giải thích nổi mối lo sợ bất ngờ của nó. Thấy mặt con lúc nào cũng có cùng một vẻ khó chịu, ngơ ngác, bà Ana ngập ngừng nói:

- Cháu... cháu nó không hiểu được... Thực tế, đứa bé bồn chồn không yên, có lúc em phân biệt được những âm thanh mới, có lúc em ngạc nhiên vì không nghe thấy những âm thanh cũ mà em đã bắt đầu quen thuộc, những âm thanh ấy nay thốt nhiên im bặt và biến đi đâu mất.





VII

Sau cùng, tiếng ồn ào của mùa xuân cũng tắt hẳn. Dưới ánh nắng mặt trời gay gắt, công việc của thiên nhiên lại bước theo lối cũ quen thuộc. Cuộc sống như tỏa ra ngày một rộng, bước chân đi mỗi ngày một dồn dập hơn, như đoàn tàu mỗi lúc một tăng tốc độ. Trong các đồng nội, từng đám cỏ phô sắc xanh tươi, hương thơm của những chồi bạch dương non mởn tỏa ngát cả bầu không khí.

Cả nhà định cho em bé ra chơi ngoài cánh đồng, chỗ bờ con sông nhỏ chảy gần đấy.

Bà mẹ dắt tay con. Cậu Mácxim tập tễnh chống nạng đi bên. Mấy người lần theo con đường nhỏ đến trái đồi ở bên cạnh, đất trên đồi nắng gió đã hút khô ráo. Trong khoảng mênh mông bát ngát này, mặt đồi cỏ mọc dày dặn mềm mại, quang cảnh nom thực lộng lẫy.

Ánh sáng mặt trời làm bà mẹ và cậu Mácxim chói cả mắt. Tia nắng sưởi nóng mặt hai người, nhưng những chiếc cánh vô hình của gió xuân đã xua hết nóng bức, làm không khí mát mẻ dịu dàng. Trên không, chập chờn bay một chất men ngào ngạt khiến cho tâm hồn như ngây ngất, mềm yếu, ủy mị.

Bà Ana thấy bàn tay nhỏ xíu của con ép chặt lấy tay mình. Nhưng hơi thở say dịu của mùa xuân khiến thiếu phụ không chú ý lắm đến cái dấu hiệu lo âu của đứa bé. Bà căng lồng ngực hít thở và cứ bước đi không hề ngoái lại. Nhưng nếu ngoảnh lại, bà sẽ thấy trên khuôn mặt đứa bé có một vẻ khác hẳn lúc bình thường. Nó trố mắt quay về phía mặt trời, đôi mắt đầy ngạc nhiên im lặng. Mồm há hốc, nó thở hổn hển như con cá vừa bị lôi lên khỏi nước. Trên khuôn mặt bối rối ấy, đôi khi vẻ ngây ngất đau đớn làm sáng lên một thoáng để rồi lại như ngạc nhiên, gần như sợ sệt, ngơ ngác không hiểu một chút gì hết. Duy có đôi mắt lúc nào cũng không động đậy, không có thần sắc.

Đến chân đồi, cả ba người ngồi xuống. Lúc thiếu phụ nhấc đứa bé đang đứng dưới đất lên đặt ngồi cho thoải mái hơn, nó co quắp bíu chặt lấy áo mẹ, như nó cảm thấy đất dưới chân biến mất nên sợ ngã. Lúc này thiếu phụ cũng vẫn không nhận thấy cái cử chỉ lo lắng của con, cảnh vật mùa xuân lộng lẫy trước mắt làm thiếu phụ mải mê ngắm nghía.

Trưa đến. Mặt trời từ từ lăn trên bầu trời xanh ngắt. Từ trái đồi chỗ họ ngồi, hai người nhìn dòng sông, nước ngập tràn bờ. Những tảng băng lớn bị nước đẩy đã giạt đi hết. Chỉ thỉnh thoảng còn mấy mẩu nhỏ như những vệt trắng lềnh bềnh trôi giữa dòng và đang tan dần. Trong đồng cỏ ngập phủm, nước tràn lan từng đám mênh mông. Những đám mây trắng nhỏ cùng bầu trời xanh soi mình trên mặt nước, và như lờ lững bơi dưới đáy. Những đám mây biến dần đi như đã tan ra cùng những mảnh băng nhỏ. Đôi lúc gió hiu hiu thổi, mặt nước gợn lăn tăn, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Xa xa bên kia bờ sông, cánh đồng trải ra bát ngát, đen ngòm. Ngoài đồng, sương khói như một lớp vải mỏng nhẹ nhàng và nhấp nhô sinh động, bốc phủ mờ những túp lều lợp rạ ở xa xa và đường cong xanh nhạt của khu rừng. Mặt đất như thở dài và nhả những làn khói cuồn cuộn bay lên trời.

Cảnh vật giãi ra bốn bề như một ngôi đền trước ngày vào hội. Nhưng với em bé mù, thiên nhiên bao giờ cũng chỉ là một đêm dài vô tận, xao động khác thường, cái đêm tối luôn luôn chuyển động, nó gầm thét, ngân nga như tiếng chuông và đang bước lại gần em. Những cảm giác lạ lùng kỳ dị đến vây kín lấy em, nó đầy dẫy tràn ngập, làm trái tim non nớt của em hồi hộp đập rất đau đớn.

Khi những tia nắng chiếu rọi vào mặt và sưởi nóng làn da mềm mại, em bé theo bản năng, tự nhiên quay mặt về phía mặt trời. Em cảm thấy mặt trời là trung tâm, mọi vật quanh em đều xoay về đấy. Với em, không có những vùng xa xa mờ ảo, không có bầu trời xanh ngắt, cả những chân trời mênh mông bát ngát cũng không. Em chỉ thấy có một cái gì cụ thể nóng ấm như một bàn tay vuốt ve, khẽ lướt qua mặt. Rồi, một cái gì mát mẻ, nhẹ nhàng, tuy nhiên vẫn không nhẹ bằng cái ấm nóng của tia nắng mặt trời, nó thổi vào mặt em, mát rượi, khoan khoái. Ở trong nhà, em bé đã quen đi lại tự do và biết được khoảng trống xung quanh mình. Nhưng ra đây, em ngạc nhiên thấy các làn sóng thay đổi mau lẹ lạ lùng, lúc vuốt ve êm dịu, lúc kích thích bồn chồn. Những cái hôn ấm áp của mặt trời bị làn gió hiu hiu lướt qua xua đi rất mau chóng. Một luồng gió xào xạc bên tai, phủ lấy mặt và hai bên thái dương, lùa từ đầu đến gáy, xoắn quanh người em như cố nhấc bổng em lên, mang em đến một nơi nào đó trong không gian mà em không nhìn thấy; cơn gió ru ngủ tâm hồn em, lôi kéo em vào lãng quên ủy mị. Em liền siết chặt thêm tay mẹ. Trái tim em lịm đi, có lúc tưởng chừng sắp ngừng đập hẳn.

Lúc bà mẹ đặt em ngồi xuống đất, em có vẻ bình tĩnh hơn. Giờ đây, mặc cho cái cảm giác lạ lùng tràn ngập trong người, em vẫn phân biệt được các âm thanh. Những làn sóng ấm áp và êm dịu vẫn cứ dồn dập mạnh mẽ, em cảm thấy nó thấm vào tận trong cơ thể em vì những tiếng đập của máu bị đảo lộn trong người em cũng tùy theo nhịp những làn sóng đó mà đập nhanh hay chậm. Nhưng bây giờ, những làn sóng đưa lại lúc tiếng hót thánh thót rõ ràng của một con sơn ca, lúc tiếng thầm thì nghẹn ngào của cây bạch dương nhỏ vừa lại mới đâm chồi xanh tươi, hoặc tiếng nước vỗ bập bềnh khe khẽ ngoài sông. Một con én bay qua, cánh đập vun vút, nó lượn quanh gần đấy mấy vòng ngoắt ngoéo, đàn ruồi nhỏ vo ve, và át lên tất cả, thỉnh thoảng có tiếng bác thợ cày giục bò kéo cày ngoài cánh đồng, tiếng lê dài, buồn bã.

Nhưng em bé không sao hiểu hết được tất cả những tiếng động ấy, tất cả những âm thanh ấy, em không ghép lại được, không phối hợp được chúng. Hình như lúc xuyên vào cái đầu bé nhỏ tối om của em, thì những âm thanh ấy, lẻ tẻ rơi xuống đáy, lúc êm ái bâng khuâng, lúc vang vang ầm ĩ. Đôi khi những âm thanh ấy dồn cả lại phát ra cùng một lúc, và xáo lộn với nhau tạo thành một thứ âm lỗi điệu vừa chối tai, vừa khó hiểu. Gió từ ngoài cánh đồng thổi lại vẫn vun vút bên tai, em cảm thấy những làn sóng lúc này đã chạy mau hơn, tiếng nó ồn ào, dập tắt mọi tiếng động khác mà lúc này chỉ còn văng vẳng như từ thế giới xa lạ đưa lại, như đã trở thành những kỷ niệm ngày hôm qua. Và khi mọi âm thanh dịu dần, thì một cảm giác uể oải kích thích thấm vào lồng ngực em bé mù. Mặt em chốc chốc lại nhăn nhó từng nhịp, mắt lúc nhắm nghiền, lúc mở to, đôi lông mày lúc nhíu lại, lúc giương lên sợ sệt, rõ là em muốn hỏi han điều gì mà không nói, và em đã cố gắng đau đớn trong suy nghĩ và tưởng tượng. Ý thức của em còn non nớt mà đã tràn ngập những cảm giác mới mẻ nên bắt đầu bị đè xuống. Ý thức non nớt ấy đã đấu tranh không lại được với những cảm giác ở khắp nơi tràn vào, nó muốn chống chọi lại, phối hợp những cảm giác ấy để chế ngự rồi chinh phục chúng, nhưng công việc ấy quá nặng đối với khối óc tối om của em, một đứa bé thiếu hẳn những biểu tượng mắt nhìn thấy để làm một việc như vậy.

Và những âm thanh lần lượt đến vây hãm em phức tạp quá, ầm ĩ quá. Những làn sóng từ những vùng tối tăm, náo động tràn ngập vào em, mỗi lúc một vang mạnh hơn, để thoáng lại biến ngay vào đêm tối như trước, nhường chỗ cho những làn sóng mới, những âm thanh mới. Những làn sóng đung đưa em, nâng em lên mỗi lúc một nhanh, mỗi lúc một cao, với một cái đà làm em phải khó chịu. Một âm điệu dài và buồn của tiếng người nói to lại một lần nữa vượt lên trên cái mớ âm thanh hỗn độn đang tắt dần, rồi thốt nhiên bốn bề im bặt.

Em bé khẽ rên và nằm vật xuống bãi. Bà mẹ quay lại nom thấy, kêu thét lên: em bé mặt tái nhợt, nằm mê man trên đám cỏ.





VIII

Việc xảy ra làm cậu Mácxim rất lo sợ. Ít lâu nay cậu tìm tòi nghiên cứu các sách nói về sinh lý học, tâm lý học và khoa sư phạm. Cậu đem hết nghị lực sẵn có vào việc nghiên cứu tất cả những điều khoa học nói về sự trưởng thành huyền bí và sự phát triển của tâm hồn các trẻ em.

Dần dần công việc nghiên cứu làm cậu say mê. Những ý nghĩ đen tối cho mình đã tàn phế, không còn sức để đấu tranh cho cuộc sống, những suy nghĩ chua chát về thân phận “con sâu bò trong đám cỏ bụi” vân vân ... tất cả đã dần dần bay khỏi cái đầu vuông cạnh của người chiến sĩ kỳ cựu. Thay vào đấy, lúc này óc cậu lại xáo động về những ý nghĩ khác do kết quả của một cuộc suy nghĩ lâu dài, thậm chí đôi khi trong trái tim đang cằn dần đi ấy, còn nảy ra những giấc mơ hồng tươi đẹp. Cậu Mácxim tin chắc tạo hóa đã không cho đứa trẻ đôi mắt để nhìn, quyết không nỡ cướp nốt cả các giác quan khác của nó. Đứa bé đáp lại hết sức đầy đủ và với một nghị lực phi thường, tất cả những cảm giác bên ngoài mà các quan năng em thu nhận được. Cậu Mácxim bắt đầu tin tưởng cậu được tạo hóa giao cho cái nhiệm vụ làm phát triển mọi năng khiếu tự nhiên của đứa bé, cậu sẽ gắng đem tinh thần và ảnh hưởng của mình để bù đắp cho bớt nỗi bất công của số mệnh. Trong hàng ngũ những người chiến đấu cho lý tưởng cao quý, tên lính mới này sẽ thay cậu, một tên lính mà nếu cậu, một người tàn tật tội nghiệp không can thiệp vào, trong tương lai sẽ không làm được việc gì có ích cho ai hết.

Người bạn già của Garibanđi nghĩ bụng: “Biết đâu đấy. Người ta rất có thể không cần gươm giáo mà vẫn đấu tranh được. Rất có thể đứa trẻ bị số mệnh bất công làm thương tổn này, một ngày kia sẽ giơ cao thứ vũ khí hợp với năng lực của nó để bảo vệ những kẻ đau khổ cùng bị cuộc sống hắt hủi. Và như vậy, ta đây, một tên lính già tàn tật, ta cũng sẽ không đến nỗi là kẻ sống thừa, trong cái thế giới này...”.

Vào thời buổi ấy, ngay đến những nhà tư tưởng tự do tiền tiến nhất cũng không thoát khỏi điều mê tín cho là vũ trụ này bị những “Ý muốn huyền bí” của tạo hóa chi phối. Cho nên, cậu Mácxim trong lúc theo sát từng bước trưởng thành của đứa bé, cậu thấy ở nó mỗi ngày một lộ rõ những khả năng ít có; cuối cùng cậu tin chắc rằng đứa bé bị mù cũng chỉ là do một trong những “Ý muốn huyền bí” ấy gây nên.

Cậu Mácxim sớm tặng cậu học trò yêu của mình câu châm ngôn: “Một kẻ chịu thiệt thòi cho tất cả những con người bất hạnh”.





IX

Sau lần dạo chơi đầu tiên vào buổi mùa xuân nọ, em bé bị mê sảng mất mấy ngày. Có lúc em nằm lịm, yên lặng trên giường, có lúc em trằn trọc, mồm nói lảm nhảm, tai lắng nghe tiếng động ở tận đâu đâu. Lúc nào nom mặt em cũng ngơ ngác kinh hãi.

Bà mẹ nói:

- Trời ơi, hình như con tôi nó cố gắng tìm hiểu một cái gì mà không làm sao hiểu nổi.

Cậu Mácxim ngồi trầm ngâm, đầu lắc lắc. Cậu biết rõ đứa bé bị xúc động quá mạnh và ngất đi như vậy là do những cảm giác tràn ngập vào nó nhiều quá, nên cậu quyết định chỉ cho những cảm giác ấy từ từ đến với đứa bé mới mệt dậy, đến từng cảm giác một. Cửa sổ buồng em bé ốm nằm đóng kín mít. Về sau dần dần khi em bình phục, mới thấy mở đôi lúc. Em được dắt đi chơi trong buồng, ra ngoài bậc cửa, ra sân, ra vườn. Mỗi khi thấy mặt em bé có vẻ lo lắng, mẹ em lại giảng giải cho em hiểu rõ bản chất những âm thanh vừa làm em kinh ngạc.

Đây là tiếng tù và của chú bé chăn cừu tít tận đằng kia, phía sau mé rừng. Còn tiếng này là tiếng chim bông lau hót giữa những tiếng chim sẻ ríu rít... Và bây giờ là tiếng con cò đậu trên bánh xe(2) đang kêu. Nó vừa mới ở miền xa xôi bay về tổ cũ.

Em bé hớn hở quay mặt về phía mẹ, tỏ vẻ biết ơn. Em cầm lấy tay mẹ, đầu gật gật, tai vẫn lắng nghe, vẻ mặt suy nghĩ, ra chiều đã hiểu rõ.





X

Bắt đầu từ đó, thấy cái gì đáng chú ý em lại hỏi han để biết. Hễ có tiếng động nào, là mẹ, hay thường thường là cậu Mácxim, lại bảo cho em biết âm thanh ấy là do những đồ vật hoặc những con vật nào đã phát ra. Lời bà mẹ giảng nghe sinh động và nhiều hình ảnh hơn làm em có ấn tượng mạnh mẽ hơn, đôi khi ấn tượng ấy rất đau đớn. Mắt đầy đau khổ và niềm ai oán không nhờ cậy vào đâu được, bà mẹ chăm chú giảng giải cho con nghe những khái niệm về hình thể và màu sắc. Em bé hết sức tập trung chú ý, đôi lông mày nhíu lại, thậm chí vừng trán trong trắng của em hằn lên mấy nếp nhăn nhè nhẹ. Chắc cái đầu nhỏ bé của em đang gặp phải một công việc quá phức tạp. Những lúc như vậy, cậu Mácxim cau mặt lại, khi đôi mắt bà mẹ rưng rưng lệ, và mặt em bé tái đi vì những cố gắng quá sức, người lính già liền xen vào, gạt chị ra và kể những câu chuyện khác cho cháu nghe; trong câu chuyện, cậu cố hết sức chỉ dùng những khái niệm về không gian và âm thanh. Nét mặt em liền dịu lại.

Em bé hỏi về con cò gõ trống trên chiếc cột: - Cậu ơi, con cò nó thế nào hở cậu? Nó có to không? Vừa hỏi, em vừa dang hai cánh tay ra. Mỗi lần hỏi những cái tương tự như vậy là em lại dang hai tay ra. Lúc nào thấy vừa vặn đúng là cậu Mácxim bảo thôi. Giờ đây em dang rộng cả đôi cánh tay bé nhỏ, nhưng cậu vẫn bảo:

- Không cháu ạ, con cò nó còn lớn hơn thế nhiều.Nếu bắt bỏ vào buồng và đặt nó xuống đất, đầu nó nghển sẽ cao quá lưng chiếc ghế dựa. Cháu hiểu chưa?

Em bé vẻ mặt trầm ngâm nói: - Thế ra nó lớn quá cậu nhỉ? Thế con chim bông lau to thế này chứ? - Em bé nhích đôi bàn tay nhỏ xíu cách nhau một chút.

- Phải, con bông lau to đúng như vậy... Nhưngchim lớn không bao giờ hót hay bằng con nhỏ. Khi con bông lau hót, nó cố hót hay để cho ai nghe cũng phải thích. Còn con cò là một giống chim nghiêm nghị, trong tổ, nó chỉ đứng có một chân, mắt luôn luôn nhìn xung quanh y như một lão chủ hà khắc đứng ốp thợ làm, quát tháo, mắng chửi, chả sợ gì làm phiền hàng xóm mà cũng không chút xấu hổ về cái tiếng khàn khàn của mình.

Nghe cậu tả, đứa bé bật cười và quên khuấy được một lát những cố gắng khó nhọc của em lúc này để hiểu được câu chuyện bà mẹ kể. Nhưng câu chuyện của bà mẹ hấp dẫn, nên em vẫn thường thích hỏi mẹ hơn là hỏi cậu Mácxim.



Nguyễn Văn Sỹ dịch


(1) Kôngtơra là tên chợ ngày xưa nổi tiếng ở Kiép.

(2) Ở Ukren và ở Ba Lan, người ta thường cắm những chiếc cột thực cao cho cò đậu. Trên đầu cột có lắp những chiếc bánh xe cũ để cò làm tổ.

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết